Thứ Năm, 1 tháng 12, 2011

"Thế Giới Khi Xưa" (THE WORLD BEFORE) p3

V. NHỮNG MÁY BAY ÐỜI THƯỢNG CỔ

Atlantis là một đại lục huyền ảo, lý tưởng, xưa nay không đâu bằng, với rừng rậm thâm u, với cánh đồng bát ngát, với khe nước suối, và một con sông lớn ngăn cách Poserdia với phần đất đai còn lại. Thật là một cõi thần tiên! Vua Atlantis tên là Atlas tức là một Adam, vợ là Heputh. 

Châu Atlantis chạy dài từ duyên hải đông Hoa Kỳ, gồm những vùng bờ biển Georgia, Carolina, Virginia, west Indies và Brazil, băng qua Ðại Tây Dương đến gần duyên hải tây Phi Châu. Những vua đầu tiên là những linh hồn tiến hóa cao, còn nhớ đời sống tâm linh và có thể cảm thông bằng tư tưởng. Vua Atlas phóng những luồng điện và những người dưới bắt luồng điện ấy hiểu được ý vua không cần nói hay viết. 

Nhưng đó không phải là một trạng thái thôi miên, chỉ là sức mạnh của ý nghĩ. Sức mạnh ấy tỏa ra từ Atlas qua các con cháu, trở thành năng lực linh động, từ ấy nẩy sinh ra những sáng chế kỳ lạ, chưa bao giờ có trước khi châu ấy bị chìm. Vua Atlas phóng ra một tư tưởng, những người khác bắt được làn sóng tư tưởng ấy đưa đến chỗ thực hiện ý nghĩ thành sự thật. Có như thế, những người Atlantis trong nhiều ngàn năm, đã sáng chế ra máy bay, tàu ngầm, tàu nổi, và tia điện như loại tia laser ngày nay, đưa đến một nền văn minh cao tột bực chưa từng có. 

Atlas và Heputh sinh ra 24 người con và có nhiều cháu, đều có trình độ tâm linh cao. Mỗi người con là một ông Hoàng cai quản khu vực của mình. Anh quốc ngày nay nằm trong phạm vi của một khu vực, trước khi bị loạt thiên tai nhận chìm tất cả đất đai từ Hoa Kỳ đến Anh, Bồ Ðào Nha và miền tây Phi Châu. Thời bấy giờ người sống rất lâu, hàng triệu năm, nên chưa có vấn đề thừa hưởng, và chẳng bao lâu vua Atlas có hàng trăm con cháu. 

Tác giả nhận thấy rằng những điều Dẫn-đạo-Sư nói trên tương tự với sự tích Atlantis mà nhà học giả Hy-lạp trứ danh Plato đã để lại cho văn minh tây phương. Plato được biết sự tích ấy do luật gia đại tài Solon ở thành Athens 600 năm trước kỷ nguyên, ông nầy đã sang Ai-Cập mười năm và đã học nhiều sự tích Atlantis do các thầy tu thành Sais, thủ đô Hạ Ai Cập. Theo Plato kể lại, vị thần Poseidon sinh ra năm đứa con trai sinh đôi, người con trưởng là vua Atlas có nhiều con cháu tiếp tục trị vì vương quốc trong nhiều thế kỷ. 

Dẫn-đạo-Sư nói thêm rằng Atlas là con cháu là dòng giống thuần túy không bao giờ ô nhiễm vì chung sống với những bàn-nhân đã có từ lâu trên Atlantis trước thời Atlas. Người Atlantis coi những bàn-nhân thô lỗ ấy như loài vật để làm việc nặng, như khuân vác, cày bừa, và sau nầy vận chuyển máy móc. 

Tuy có sự phân biệt giữa hai hạng người và bàn-nhân, nhưng lúc đầu họ không cảm thấy bị lạm dụng, vì mỗi bên đều làm hết sức mình. Nhưng mấy chục ngàn năm sau, sinh ra có sự tranh chấp, không những giữa người và bàn-nhân, mà còn ngay chính giữa loài người, vì bấy giờ đã mất quan niệm họ hàng và quan niệm đồng nhất. Khi ấy Atlas và con cháu gần đã qua đời lâu rồi, dân chúng đã đông đầy trên đại lục, đồng thời những chim và thú khổng lồ đã sinh sôi nẩy nở ra nhiều, trở thành mối đe dọa tiêu diệt nhân loại. 

Ðược hỏi rõ hơn về sự cấu tạo loài người, Dẫn-đạo-Sư nói: Người ta lúc đầu chỉ là những hình bóng do ý nghĩ của Thượng Ðế mà thành, nhưng từ khi phối hợp với loài vật sinh ra những bàn-nhân, thì bị ràng buộc vào mặt đất. Khi Thượng Ðế sinh ra nam và nử là hai phần của linh hồn. Ngài dùng những chất liệu ở mặt đất để tạo thành những thân hình xác thịt, như đã tạo nên loài vật và các sinh vật khác, các nguyên liệu căn bản vẫn thế: khí, nước, đất, kim thạch, sinh tố. Thân hình người ta là sự sáng tạo tối cao, cũng bằng cùng những thứ vật liệu như các hình thể khác trên trái đất nầy. Xin chớ nghĩ rằng Tạo Hóa có hai bàn tay lớn từ trên trời thò xuống cạo đất xét trộn với nước, kim thạch, cây cỏ. Thực ra chỉ là ý nghĩ của Thượng Ðế dùng những vật liệu thích hợp tạo nên hình một sinh vật hoàn toàn. 

Atlantis trong nhiều ngàn năm được những vua và hoàng tử sáng suốt nối tiếp nhau trị vì, mưu lợi ích chung. Rồi sau, người Atlantis hành hạ những bàn-nhân, gọi chúng là lao động nửa người nửa vật, cũng như người Mỹ miền nam trong thời kỳ đồn điền hưng thịnh, những trại chủ hành hạ người da đen bị bắt từ Phi Châu tới để làm nô-lệ. Những bàn-nhân xấu số ấy thường ở với nhau, nên dòng giống không khá lên được. Họ ở trong những túp lều, trong khi người Atlantis giống da đỏ sống xa hoa, với đủ đồ trang bị tự động do sức mạnh của quả cầu Pha-lê thu hút năng lực của mặt trời phát ra. Người Atlantis có đầu óc sáng tạo, thích thí nghiệm tất cả các loại khí (hơi), kim thạch, thảo mộc, và họ dùng những bàn-nhân để làm việc nặng nhọc như khuân vác, vận chuyển, hoặc làm việc nhẹ như điều hành những công tác dưới sự chỉ huy của người Atlantis. 

Dẫn-dạo-sư nói rằng những sinh linh (beings) từ ngoài không gian được hấp dẫn tới Atlantis vì năng khiếu sáng tạo của những người ở đấy, và đã dành nhiều thì giờ đàm luận với họ. Những quý khách không gian ấy đã giúp nhiều trong việc tạo nên Quả cầu Pha-Lê vĩ đại. Nhờ sức mạnh lớn lao của Quả cầu ấy mà những máy bay, tàu nổi, và tàu ngầm được duy chuyển với một tốc độ kinh khủng. Lúc đầu sức mạnh ấy được dùng vào việc ích lợi chung, nhưng về sau lại dùng vào việc phá hoại. 

Quả cầu vỉ đại! cái lực lượng do việc thiện và việc ác mà Edgar Cayee đã nói đến, hiện nay còn nằm sâu dưới Ðại Tây Dương khu Tam giác Bermuda, ở đấy đã có biết bao máy bay và tàu biển biến mất một cách bí mật trong những thập niên gần đây.(Xem chương. IX. biển Sargasso bí mật) 

Những khách không gian đã dạy cho người Atlantis đã tạc nên Quả cầu khổng lồ, sau khi họ đã bắt đầu chinh phục được năng lực bằng những quả cầu nhỏ để điều khiển những đồ trang bị. Trên một sườn đồi, họ tìm thấy một mạch đá thạch anh (quart) đủ lớn để phản chiếu tất cả tia sáng của mặt trời và mặt trăng, vì mặt trăng cũng dự phần vào cuộc thí nghiệm lớn lao ấy. Sau khi đã dục bỏ hết đất bám chung quanh,họ khắc những mặt phẳng rất tỉ mỉ để phản chiếu tất cả các tia sáng. Thời bấy giờ bầu khí quyển hoàn toàn trong sạch, nên tia sáng không bị thiên lệch. Vì họ sản xuất năng lực thừa dùng hàng ngày, nên họ tìm cách tích trữ năng lực còn dư vào những thùng lớn bằng đồng, để cho các máy bay và tàu không phải tùy thuộc vào sự cung ứng năng lực mỗi ngày. 

Những khách không gian ấy đến trái đất bằng những phi thuyền tuyệt xảo. Có nhiều loại máy bay khác nhau, phần lớn có những đĩa và những máy xoay tròn để không bị sức hút của từ lực khi cất cánh và hạ cánh. Ðến nơi họ chuyển những vật liệu lấy ở trái đất thành khí chất để làm ra điện lực. Những người Atlantis theo mẫu ấy đã sáng chế ra những máy bay và tàu chuyển động bằng năng lực do Quả cầu vĩ đại phóng ra. 

Theo Dẫn-đạo-Sư, vì có những thú vật khổng lồ càng ngày càng đông, nên người Atlantis đã phải tập trung vào những khu có tường thành bao bọc, và nhu cầu đã thúc đẩy tài sáng tạo của họ. Vì họ là dòng dõi những "linh hồn nhẹ hơn không khí", nên họ còn giữ được khả năng giao tiếp với thế giới tâm linh và sáng tác ra những kỳ quan mà thế giới chưa từng thấy. 

Tại sao những người không gian đến Atlantis mà không đến Lemura? Dẫn-đạo-Sư nói: Ðó là gì cái lẽ đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, cùng có óc sáng tạo như nhau thì dễ gần nhau hơn. 

Những khách không gian và người Atlantis đã phải mất nhiều năm mới tạo nên Quả cầu khổng lồ, và cái gương phản chiếu để chứa đựng quả cầu đó. Rồi họ sáng chế những tàu, máy bay, cả loại máy đứng yên một chỗ trên không trung như máy trực thăng ngày nay. Với những máy nầy họ đã học được địa đồ những vùng rộng lớn trên trái đất. Một số họa đồ ấy được tìm thấy mấy trăm năm trước, cho thấy hình ảnh trái đất trước lần đổi trục sau cùng, khi mà Nam-cực không có băng tuyết. 

Những họa đồ ấy đã được tìm thấy tại Thỗ-Nhĩ-Kỳ hồi đầu thế kỷ 18, là sở hữu của Ðề-đốc Thổ Piri Reis. Ðó là bản sao họa đồ rất cổ, cho thấy những dãy núi ở Nam-cực trong thời không có băng tuyết. Những nhà địa-dư học mãi đến năm 1952 dùng phương pháp đo tiếng vang mới hình dung được những núi ấy. Ngày nay đem những hình chụp từ vệ tinh so với bản địa đồ ấy thì thấy rất giống nhau. 

Ðại học Georgetown trong buổi phát thanh vô tuyến ngày 26-8-1956 bình luận về địa đồ Reis, nói rằng nếu không dùng phương pháp chụp hình từ trên không trung thì không thể nào họa được địa đồ ấy. 

Trong cuốn Edgar Cayee on Atlantis, chính con Edgar Cayee cũng có đề cập tới địa đồ ấy. 

Chắc chắn rằng chưa ai có thể bay được hồi đầu thế kỷ 18 khi địa đồ Reis được tìm thấy. Edgar Cayee và các dẫn-đạo-sư đồng ý rằng những người Atlantis là những phi hành gia đại tài




VI. ATLANTIS HIỂN NHIÊN CÓ THẬT

Plato, nhà hiền triết Hy-lạp 24 thế kỷ trước (427-347 trước kỷ nguyên) đã nói đến một đại lục rộng lớn nằm tại phía tây eo biển Gibraltar, đó là đại lục Atlantis. Khi bị chìm xuống vì động đất, Atlantis trở thành một vùng biển bùn lầy trong nhiều ngàn năm, tàu thuyền không qua lại được. Edgar Cayee trong khi thôi miên, nói Atlantis bị chìm mất dạng sau ba trận thiên tai, trận sau chót khoảng 10.000 năm trước kỷ nguyên. 

Những nhà địa chất học cũng nhận rằng những đại lục ngày nay đã trải qua rất nhiều biến chuyển nổi lên chìm xuống trong nhiều triệu năm. Bờ biển Na-uy, Thụy Ðiển, Ðam Mạch, đã trồi lên hàng trăm thước trong nhiều ngàn năm gần đây. Cù lao Sivily thuộc Ý ngày nay cao 1000 thước trên mặt biển, xưa là đáy biển. Những lớp than đá tại Pennsylvania chứng tỏ rằng vùng ấy đã ở trên và dưới mặt biển ít nhất 23 lần. Trận động đất tai hại nhất trong thời cận đại đã xảy ra 200 năm trước tại thủ đô Bồ-đào-Nha (gần bờ biển đông của Atlantis) sát hại 60 ngàn người trong sáu phút. Nhiều người chạy đến bến bờ cẩm thạch tưởng rằng được an toàn, nhưng bến tàu đột nhiên chìm xuống biển sâu 200 thước, hút xuống tất cả người và tàu thuyền lân cận. Ðồng thời đất nứt ra ở một làng Maroc nuốt cả 10 ngàn người ở đó. Nhiều người ngày nay còn nhớ nạn núi phun lửa Pelée trên đảo Martinique năm 1902, thành phố thủ đô và 30 ngàn dân chúng bị quét sạch trong vòng mấy phút. 

Gần 40 năm trước, Edgar Cayee đã tiên đoán một phần Atlantis quanh Bimini bắt đầu nổi lên khoảng 1968-1969. Trong mấy năm vừa qua, các nhà địa chất học đã chụp được những hình tựa như những bức tường và những tòa nhà ở dưới mặt nước tại đó. Năm 1949 nhà bác học Maurice Ewing thuộc đại học Columbia, đã công bố một bản báo cáo về những cuộc thám hiểm dưới Ðại-Tây-Dương trong đó có nói đến việc khám phá một bãi cát nằm dưới sâu 5600 thước dưới mặt nước và cách xa đất liền 2000 cây số, nơi ấy xưa là bãi biển, vì chỉ có bờ biển mới có bãi cát. 

Bắc Mỹ thời tiền sử khác với hình thể ngày nay, vì người ta tìm thấy xương cá voi tại Michigan, New Hampshire,Montreal, ở những nơi cao hơn mặt biển 150 đến 200 thước. 

Những kim-tự-tháp tại Ai-Cập và Mể Tây Cơ có nhiều điểm tương tự, như là những chữ thập trên các ngôi đền ở Mễ Tây Cơ đã có từ lâu trước khi người Tây Ban Nha xâm chiếm và đem đạo Gia Tô truyền vào nước. Dẫn-đạo-Sư giải thích rằng: từ đời xa xưa không có núi, những kim-tự-tháp được xây dựng trên Lemuria và Atlantis, là những nơi cao nhất cho các thầy tu tôn thờ Thuợng Ðế. Bao giờ người ta cũng nghĩ rằng Thượng Ðế ở trên cao, trái với đất ở dưới. Thập-tự tượng trưng cho người đứng trên trái đất với hai tay dang ra, giữa khoảng từ mặt đất lên đến trời. 

Trong thời vàng son trên Atlantis, theo lời dẫn-đạo-sư, những nhà ở cũng tựa như thời La-mã, dùng đá, cẩm thạch, đất sét để xây. Nhờ được khí hậu tốt, người ta ưa sống ngoài trời, nên có nhiều hành lang và sân trống giữa nhà. Người Atlantis có óc sáng tạo, chuyển ý nghĩ thành đồ dùng. Nhiều người còn giữ mình trong sạch không tội lỗi, nên có thể phóng ý nghĩ nhanh hơn là gửi thơ. Vì lẽ ấy những sáng tác mỹ thuật giống nhau tại nhiều nơi trên hoàn cầu. 

Nói về luân hồi, Dẫn-đạo-sư giải thích: Lúc đầu, người đều toàn thiện nên sống rất lâu. Nhưng sau vì cám dỗ làm dơ bẩn linh hồn, nên đời sống bị rút ngắn lại. Những linh hồn ấy trãi qua một thời gian thiền định để kiểm điểm lại những lỗi lầm và quyết định chuộc tội, nên tìm cơ hội trở lại đời vật chất, do đó mà có luân hồi. Luân hồi cần thiết cho sự tiến hóa cũng như không khí để thở. Khi ở trong thân hình vật chất thì linh hồn muốn trở về với đất Sáng Tạo. Họ nhớ đến tình trạng toàn thiện, và mặt dù con đường đi cực nhọc và khó khăn, có rất nhiều linh hồn đã đi được đến nơi và hòa đồng với Thượng Ðế, không phải quay trở lại thân hình vật chất nữa. Không phải là tất cả các linh hồn đều đã đầu thai. Có một số muốn ở lại trạng thái tâm linh để giúp đỡ những linh hồn trong thân xác thịt, có thể gọi đó là những thiên thần hộ mệnh.
-----------------------------------------

VII. ÐỜI SỐNG TRÊN ATLANTIS

Dẫn-đạo-sư nói: Trong một đời trước, cách đây hơn 51.000 năm, tác giả tên là Thelama, đã sống cùng gia đình trên Atlantis gần Poseidon, thành phố lớn nhất của Poseidia, trong một khu vườn trại rộng lớn có tường cao bao bọc chung quanh để tránh khủng long và man-mút. Ở đây cái nạn những con vật khổng lồ còn đỡ hơn ở Lemuria. 

Những người Atlantis có mũi nhọn dài, tóc đen bóng như than, mắt đen, môi tô son, da đỏ như người thổ dân Mỹ, những nguời nầy dòng dõi người Atlantis. Không có tục bôi móng tay móng chân, nhưng họ xoa dầu lên tay, mặt và ngực để giữ cho da mềm và đỡ bị nắng rám. Quần áo họ bằng hàng dệt nhuộm màu các kiểu, đàn ông nhiều khi còn làm dáng hơn đàn bà. Răng trắng như ngọc trai và không bị sâu. Rau cỏ và trái cây họ đều ăn sống, còn thịt thì ăn nướng nhưng ít ăn trừ khi có đại tiệc. Bao giờ cũng có một ngày để lễ mặt trời và một ngày để lễ mặt trăng tròn được coi là Hoàng Hậu Ban Ðêm. 

Thượng Ðế là đấng tối cao, ít khi được nói đến tên, mà chỉ tôn xưng là Ngài. Khi cần cầu đến Thượng Ðế thì chúm môi lại tròn như chữ o và phát âm thanh "o" để chỉ mặt trời, và ngậm miệng lại phát âm thanh "om" (Nhiều câu chú trong kinh Phật có chữ "Ôm", ta thường đọc là "Úm" hoặc "Án"). Nếu được như thế thì đó là căn nguyên của tiếng "Om" trong khi thiền (lời tác giả). 

Cừu (trừu) được nuôi trong nhà như bạn, cũng như chó ngày nay. Chúng được buộc yên cho trẻ con cưỡi, lông được xén để ngồi gối hoặc dệt hàng mặt. Những nhà giàu hay mở tiệc có khi kéo dài hàng tuần lễ, khách từ mọi nơi được gởi thiệp mời do chim bồ câu mang đi và đem thiếp trả lời về. Họ không ăn thịt chim và cừu, coi chúng như những báo nhân. Giới cầm quyền có những lâu đài lộ thiên lan rộng ra hàng mấy trâm thước mỗi chiều, và họ cũng lịch sự tao nhã như người thời nay. Nước được dẫn bằng ống từ giếng hay từ suối trong khe núi. Người Atlantis đều thọ mấy trăm năm (Thelama thọ 300 năm) do đó họ có nhiều thời giờ để phát triển khả năng 

Trong thời Thelama trên Atlantis. Quả cầu pha-lê vĩ đại và các phi cơ đã được thành hình. Thelama gặp một nhà bác học trẻ tuổi đến Poseidia từ nơi xa mà ngày nay là Alegia. Y nghiên cứu cách thu hút năng lực của mặt trời tạo ra một tia sáng kiểu laser bằng Quả cầu Pha-lê vĩ đại, để chuyển động các tàu và phi cơ đi quanh trái đất. Cha Thelama là cố vấn trong triều, mời y đến ở trong trại vì nhà y ở xa quá. Y tự phụ y là người đặc biệt, không tin có Thượng Ðế mà y không trông thấy, đã tạo ra vũ-trụ, nên không theo luật trời. Y muốn thu hút năng lực không những để chuyển động máy móc, mà còn để sai khiến mọi người, và y muốn diệt chủng những bàn-nhân, như kiểu những nhà bác học của Hitler. Trái lại, Thelama rất tin Thượng Ðế, vì thế cuộc hôn nhân đã dự tính giữa Thelama và y đã không thành. 

Y trở lại Poseidon và được chính phủ cho phép nhóm của y nghiên cứu Quả cầu Pha-lê vĩ đại. Việc nầy phải mất nhiều năm và có nhiều người khác cộng tác, nhưng y là một trong những nhà bác học nổi tiếng nhất đã sáng chế ra quả cầu pha-lê. Mảnh lực hùng vĩ Quả cầu Pha-lê từ đấy đã giúp ích nhiều cho dân Atlantis, nhưng sau nầy chính nó lại tiêu diệt đại lục và đa số dân chúng. 

Sự bí mật của Quả cầu là ở trong thán chất. Những người điều khiển việc kiến tạo nầy cùng ở trong một khu có đầy đủ tiện nghi và xa hoa tối tân. Họ hướng những mặt phẳng của quả cầu một cách rất tinh xảo để thu hút năng lực của mặt trời và phản chiếu ra thành tia kiểu laser để phục vụ nhân loại. Khi hoàn thành, những tia từ quả cầu phát ra có thể chuyển động máy móc trên trời hay dưới biển đi nhanh với tốc độ âm thanh. Quả cầu không được đặt tại thành phố Poseidon, mà ở gần nơi mà ngày nay là đảo Bimini, ở đó lâu lâu nó còn hoạt động. 

Atlantis bấy giờ văn minh nhất thế giới về tất cả mọi phương diện, duy kém Lemuria về triết lý. Tính ham biết lên đến cực điểm, và những giải pháp được nghiên cứu theo mọi khía cạnh, trên tiến bộ nhanh chóng lạ lùng.

(còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét